Trong xuyên suốt chiều dài lịch sử của bóng đá thế giới đã chứng kiến không ít các cầu thủ vĩ đại đã đi vào ngôi đền huyền thoại. Tài năng cũng những phẩm chất xuất chúng của các huyền thoại luôn để lại những dư vị khó quên với những người đã trót dành niềm đam mê vô tận cho trái bóng tròn. Bài viết hôm nay, Bóng Đá INFO sẽ điểm qua top 10 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại.
Quả thật việc để chọn ra 10 gương mặt ưu tú nhất đưa vào danh sách 10 ngôi sao xuất sắc nhất mọi thời đại quả thật là rất khó, hay nói đúng hơn là rất rất khó và rất dễ gây ra tranh cãi nhưng thôi trong bài viết này, chuyên trang soi kèo trực tuyến Bong Da INFO xin phép được “cầm đèn chạy trước ô tô”. Chúng tôi xin đưa ra 10 cái tên được xem là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại. Xin mời anh em theo dõi nhé!
Người đứng ở vị trí đầu tiên trong danh sách 10 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại không có gì phải bàn cãi chính là vua bóng đá Pele.
Vua bóng đá Pele sinh ra tại Brazil vào ngày 23 tháng 10 năm 1940. Xứ sở Samba nổi tiếng với việc sản sinh ra vô số những cầu thủ bóng đá vĩ đại và Pele được xem là người vĩ đại nhất.
Pele tên đầy đủ là Edson Arantes do Nascimento, những thành tựu của ông chủ yếu được nhớ đến khi chơi cho đội tuyển quốc gia Brazil. Không quá lời khi khẳng định Pele là vua bóng đá khi ông liên tục để lại dấu ấn đậm nét trên sân cỏ và gặt hái được nhiều thành công vang dội cho bản thân cũng như đội tuyển quốc gia Selecao.
Huyền thoại sống vĩ đại người Brazil nổi tiếng cả trong và ngoài sân cỏ. Pele đã giành được ba chiếc cúp vàng thế giới ở ba kỳ World Cup với tư cách là một cầu thủ vào các năm 1958, 1962 và 1970.
Trong một cuộc khảo sát chính thức trên trang chủ FIFA, ông được vinh danh là Vua bóng đá và là cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại. Pele có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cộng đồng bóng đá toàn cầu. Sau khi giải nghệ, người đàn ông vĩ đại này vẫn thường xuyên được nhắc đến trên các tạp chí bóng đá nổi tiếng và thường xuyên được nhắc đến đầu tiên khi đề cập đến các cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử làng túc cầu.
Đứng thứ 2 trong danh sách cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại là huyền thoại bóng đá người Argentina, “Cậu bé vàng” Diego Maradona
Diego Armando Maradona, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1960 tại Buenos Aires là một trong những tượng đài của bóng đá thế giới và người dân xứ sở Tango. Ông đã từng tham dự ở 4 kì World Cup cùng La Albiceleste và đạt được những danh hiệu cá nhân và tập thể cao quý.
Ông từng được vinh danh là Cầu thủ của thế kỷ do chính người hâm mộ bầu chọn (giải thưởng do FIFA bình chọn thuộc về Pele) và đứng thứ hai trong TOP 100 Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của World Soccer, chỉ sau Pelé.
Maradona bắt đầu chơi bóng tại các lò đào tạo trẻ của Argentina khi mới 12 tuổi. Bởi vì El Diego còn quá trẻ để đăng ký tham gia thi đấu chuyên nghiệp, những người quản lý của các câu lạc bộ này còn gian lận tuổi của ông thời điểm ấy để có thể đăng ký ông vào đội hình thi đấu và thậm chí Maradona còn được đăng kì dưới một cái tên giả. Với tài năng thiên bẩm của mình, cậu bé vàng nhanh chóng thăng tiến lên đội hình 1 của của câu lạc bộ Argentinos Juniors.
Trong sự nghiệp của mình, Maradona đã giành được vô số danh hiệu với Boca Juniors, Barcelona và Napoli. Ông đã có 91 lần khoác áo ĐTQG Argentina và ghi được 34 bàn thắng. Thành tựu nổi bật nhất của Maradona chính là việc dẫn dắt Argentina đến chức vô địch World Cup 1986 và được vinh danh là "Cầu thủ xuất sắc nhất" của giải đấu.
Cũng trong năm đó, trong trận tứ kết gặp đội tuyển Anh, Maradona vừa đóng vai thiên thần và ác quỷ khi ghi hai bàn thắng tiễn Tam sư về nước. Cả hai bàn thắng đều được giới mộ điệu gán với những danh xưng riêng mỗi khi nhắc đến. Một là “Bàn tay của chúa” và hai là “Bàn thắng thế kỷ”
Bàn thắng thế kỉ vào lưới đội tuyển Anh năm đó là tình huống một mình Maradona đã dốc thẳng bóng từ khu vực giữa sân, ông vượt qua hàng loạt 6 cầu thủ của đối phương trước khi lừa bóng qua nốt thủ thành Peter Shilton của đội tuyển Anh trước khi đưa bóng vào lưới trống.
Cả thế giới ca tụng bàn thắng này của ông là “Bàn thắng của thế kỷ” hay còn được gọi là El barrilete Cósmico ở Argentina (trong tiếng Tây Ban Nha). Ngoài khả năng chơi bóng thiên bẩm, El Diego cũng không ít lần vấp phải những scandal tai tiếng trong sự nghiệp, điển hình trong số đó là việc ông bị kết tội sử dụng Doping tại World Cup 1994 trên đất Hoa Kỳ và bị cấm thi đấu chuyên nghiệp.
Dù sao đi nữa, khi nhắc đến Maradona, khán giả luôn nhắc về ông như là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại.
Thánh Johan tên đầy đủ là Hendrik Johannes Cruyff (sinh ngày 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam – mất ngày 24 tháng 3 năm 2016 tại Barcelona) là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá huyền thoại người Hà Lan.
Ông đã vinh dự giành được Ballon d'Or ba lần với tư cách là một cầu thủ vào các năm 1971, 1973 và 1974. Cruyff là người được cả thế giới biết đến với triết lý bóng đá tấn công tổng lực do HLV huyền thoại Rinus Michels khai sinh.
Trong những năm 1970, bóng đá Hà Lan đã phát triển từ vị thế của một nền bóng đá nhỏ bé đến một thế lực hùng mạnh của châu Âu và thế giới. Cruyff là đầu tàu đã đưa đội tuyển quốc gia Hà Lan đến trận chung kết FIFA World Cup 1974 và giành danh hiệu Quả bóng vàng.
Cruyff cũng thông thạo 5 thứ tiếng khác nhau và ông được coi là cầu thủ Hà Lan xuất sắc nhất mọi thời đại, cũng như là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới trong lịch sử bóng đá.
Cruyff bắt đầu sự nghiệp của mình với Ajax. Tại đây, ông đã giành được 8 chức vô địch quốc gia và 3 Cúp châu Âu với câu lạc bộ. Ông đến FC Barcelona vào năm 1973, thiết lập một kỷ lục chuyển nhượng cầu thủ lúc bấy giờ.
Trong mùa giải đầu tiên khoác áo độ chủ sân Camp Nou, thành Johan ngay lập tức cho thấy tầm ảnh hưởng của mình khi giúp Barca giành chức vô địch La Liga và đoạt danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu.
Trên cương vị HLV, Cruyff tiếp tục có một sự nghiệp huấn luyện thành công với Ajax và FC Barcelona sau khi giải nghệ vào năm 1984. Sau đó, ông vẫn là một cố vấn đắc lực tại hai đội bóng.
Không phải ngẫu nhiên mà giới mộ điệu tôn ông là “Thánh”, với nhiều người sự vĩ đại của Johan Cruyff không kém là bao so với hai vĩ nhân Maradona và Pele. Chỉ có một điều đáng tiếc là dù đã ở rất gần vinh quang nhưng ông chưa một lần cùng cơn lốc màu da cam đứng trên đỉnh thế giới với chiếc cúp vàng World Cup.
Franz Anton Beckenbauer sinh ngày 11 tháng 9 năm 1945 là một huyền thoại của bóng đá Đức và được mệnh danh là "del Kaiser", có nghĩa là "hoàng đế" trong tiếng Đức.
Tên của ông, Franz cũng có nghĩa được dùng để chỉ những người cai trị. Ông được coi là cầu thủ Đức xuất sắc nhất mọi thời đại, cũng như là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá, nhờ khả năng thống trị trận đấu đặc biệt của mình.
Một trong những vị trí bóng đá được “Hoàng đế” Beckenbauer nâng tầm lên một tầm cao mới chính là vị trí Libero (còn được gọi là hậu vệ quét). Dù cho người Ý là đội bóng đã khai sinh ra lối chơi phòng ngự trứ danh Catenaccio với vị trí Libero nhưng người đã nâng tầm vị trí Libero lên tầm huyền thoại lại chính là Franz Beckenbauer.
Với sự xuất chúng của mình, Beckenbauer đã có 2 lần được vinh dự nhận danh hiệu cao quý Quả bóng vàng hai lần vào các năm 1972 và 1976.
Beckenbauer có tổng cộng 103 lần khoác áo các cỗ xe tăng Đức và có 5 bàn thắng sau 2 kỳ World Cup. Hoàng đế Beckenbauer cũng đã vô địch World Cup với tư cách là cầu thủ kiêm đội trưởng tuyển Đức vào năm 1974 và một lần nữa với tư cách là huấn luyện viên vào năm 1990.
Ông đã giành được ba chức vô địch châu Âu liên tiếp với Bayern Munich từ năm 1974 đến năm 1976, cũng như Cúp C2 vào năm 1967. Sau đó, ông trở thành một huấn luyện viên và chủ tịch liên đoàn bóng đá. Beckenbauer vẫn là một nhân vật lớn của bóng đá Đức thời điểm hiện tại và góp công lớn trong thành công vang dội của cả nền bóng đá nước Đức.
Ông có câu nói nổi tiếng được coi là một trong những triết lý bất hủ của bóng đá: "Kẻ mạnh không phải lúc nào cũng là kẻ chiến thắng, mà kẻ chiến thắng mới là kẻ mạnh".
Platini tên đầy đủ là Michel François Platini sinh ngày 21 tháng 6 năm 1955 tại Joeuf, Pháp là huyền thoại bóng đá của “Bà đầm già” Juventus, huấn luyện viên và Chủ tịch Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) từ năm 2007 đến năm 2016.
Ông đã giành ba Quả bóng vàng liên tiếp với tư cách là cầu thủ vào các năm 1983, 1984 và 1985. Trong những năm tháng đỉnh cao, Platini đã từng khoác áo CLB Nancy, Saint-Étienne và Juventus trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình. Platini là một phần của đội tuyển Pháp vô địch châu Âu EURO năm 1984, giải đấu mà Latini được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất và cũng đồng thời là vua phá lưới.
Michel Platini cũng đã cùng với những chú gà trống Gaulois thi đấu ở các kỳ World Cup 1978, 1982 và 1986 với thành tích giành hạng 3 năm 1986 và hạng 4 năm 1982. Pháp đã thi đấu bùng nổ trong suốt những năm 80 với bộ tứ huyền ảo bao gồm Platini, Alain Giresse, Luis Fernández và Jean Tigana với Michel Platini là nhân tố nổi bật nhất.
Kết thúc sự nghiệp cầu thủ, Platini trở thành huấn luyện viên của đội tuyển Pháp tại Euro 92. Ông cũng là đồng trưởng ban tổ chức của FIFA World Cup 1998 ở quốc gia của mình (cùng với Fernand Sastre), kì world cup 1998 sẽ mãi là kì World Cup đáng nhớ với các cổ động viên của Pháp khi đội bóng con cưng của họ đã quật ngã ƯCV vô địch khi ấy là Brazil với tỉ số 3-0.
Michel Platini được bầu làm Chủ tịch UEFA vào ngày 26 tháng 1 năm 2007, sau cuộc họp của Ban chấp hành Liên đoàn bóng đá châu Âu tại Dusseldorf, Đức. Nhưng sau đó, Platini đã phải từ chức chủ tịch UEFA vào ngày 10 tháng 5 năm 2016, sau khi nhận án phạt đình chỉ mọi hoạt động bóng đá của mình từ Tòa án Trọng tài Thể thao Quốc tế (CAS).
Alfredo di Stefano sinh ngày 4 tháng 7 năm 1926 tại Barracas, Buenos Aires, Argentina là một sát thủ huyền thoại được làng túc cầu mệnh danh là “mũi tên bạc”.
Tên tuổi của ông gắn liền với câu lạc bộ Real Madrid, vào thời điểm ấy Stefano đã hợp cùng Ferenc Puskas trạo thành bộ đôi cực kì lợi hại trên hàng công giúp cho Real Madrid có được thời kỳ đội thống trị Cúp C1 châu Âu vào những năm 1950, khi Los Blancos giành được 5 chức vô địch châu Âu liên tiếp bắt đầu từ năm 1956.
Di Stefano là một cầu thủ đặc biệt khi từng khoác áo cả 3 màu áo của đội tuyển quốc gia là Argentina, Colombia và Tây Ban Nha. Vào năm 1957 và 1959, ông đã giành được giải thưởng cao quý Quả bóng vàng.
Mũi tên bạc Di Stefano được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại. Đại sảnh danh vọng Bóng đá Quốc tế đã giới thiệu Di Stefano như là một nhân vật trung tâm, luôn có chỗ đứng vĩ đại trong làng túc cầu. Stefano là một tiền đạo giàu sức mạnh cùng với thể lực tuyệt vời, khả năng xử lý bóng khéo léo và nhãn quan cực kì nhạy bén.
Trong suốt sự nghiệp thi đấu đỉnh cao của mình, Stefano đã có cho mình 228 bàn thắng sau 329 lần ra sân, ông là chân sút xuất sắc thứ ba trong lịch sử giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha Laliga. Di Stefano cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại tại giải vô địch quốc gia của Real Madrid, với 216 bàn thắng sau 285 trận đấu ở giải quốc nội từ năm 1953 đến năm 1964.
Nhân kỷ niệm 100 năm thành lập FIFA, Di Stefano được Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha vinh danh là cầu thủ vàng của bóng đá Tây Ban Nha và là cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử của đất nước vào tháng 11 năm 2003. Tháng 3 năm 2004, Pelé đã tôn vinh ông là một trong 125 huyền thoại sống của bóng đá toàn cầu.
Ngoài ra, trong một cuộc bình chọn các cựu danh thủ về các huyền thoại vĩ đại nhất mà thế giới bóng đá đã từng sản sinh ra, Di Stefano đứng ở vị trí thứ 4 sau Pelé, Diego Maradona và Johan Cruyff. Ông cũng đã giành được danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu, giải thưởng dành cho cầu thủ của thế kỷ do tạp chí bóng đá nổi tiếng France Football của Pháp trao tặng. Ông qua đời vào ngày 7 tháng 7 năm 2014, tại Madrid, Tây Ban Nha.
Ferenc Puskas sinh ngày 2 tháng 4 năm 1927 tại Budapest là huyền thoại bóng đá người Hungary. Ông là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Hungary, đồng thời là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại, đứng thứ 7 trong danh sách 100 Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ XX do liên đoàn bóng đá thế giới FIFA bầu chọn.
“Thiên nga trắng” người Hungary đã ghi 84 bàn trong 85 trận đấu quốc tế cho đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary cũng như 4 bàn sau 4 trận cho đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha và 511 bàn sau 533 trận tại cấp độ câu lạc bộ.
Điểm mạnh của Puskas không nằm ở thể hình lý tưởng, chiều cao và khả năng không chiến ... Tuy nhiên, Puskas lại có tốc độ như một chiếc phi cơ và cái chân trái rất điêu luyện. Chính bởi vật mà giới mộ điệu đã đặt biệt danh cho huyền thoại này là “thiếu tá siêu tốc”.
Trong 84 trận đấu cho đội tuyển quốc gia Hungary, ông đã ghi được 83 bàn thắng. Puskas đã giữ kỷ lục này trong gần một thế kỷ, và nó chỉ bị đánh bại vào năm 2003 bởi cầu thủ tấn công người Iran Ali Daei (người đã ghi 109 bàn cho đội tuyển quốc gia, nhưng cựu cầu thủ của Bayern Munich phải mất 149 trận). Thời điểm hiện tại, người đang giữ kỉ lục ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển quốc gia chính là siêu sao người Bồ Cristiano Ronaldo với 117 bàn thắng sau 191 trận đấu.
Khi được hỏi về thành tích của bản thân, Puskas khiêm tốn nói rằng chính các đồng đội mới là "nguồn gốc" giúp ông có được thành tích ghi bàn khủng khiếp đến như thế. Thật vậy, những người xuất chúng như Zoltán Czibor, József Bozsik, Sandor Kocsis và Nándor Hidegkuti đã xuất hiện từ thời kỳ hoàng kim của Hungary. Hungary ngày đó nổi tiếng với lối chơi cực kì khoa học và áp dụng sơ đồ đội hình cũng như lối đá đặt nặng tính chiến thuật. Cần biết rằng, các đội bóng khác vào thời điểm đó vẫn chơi rất khá bản năng.
Huyền thoại bóng đá đương đại Lionel Messi sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987 tại Argentina hiện đang chơi cho câu lạc bộ PSG của nước Pháp. Messi được nhiều người hâm mộ cũng như giới chuyên môn đánh giá cực cao trong Top cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại.
Anh đang giữ kỷ lục vô tiền khoáng hậu khi là chủ nhân của 6 Quả bóng vàng: 2009, 2010, 2011, 2012, 2015 và 2019. 7 lần là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA, anh là cầu thủ đầu tiên và duy nhất giành được Chiếc giày vàng châu Âu 6 lần. Phong cách chơi bóng của thiên tài người Argentina đôi khi được ví như Diego Maradona, người coi Messi như "người thừa kế" vĩ đại của mình.
Messi bắt đầu đặt dấu ấn với làng túc cầu thế giới khi dẫn đầu danh sách ghi bàn tại FIFA U-20 World Cup 2005 với sáu bàn thắng, trong đó có hai bàn ở trận tranh chức vô địch. Sau đó El Pulga nhanh chóng được gọi vào đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Anh là cầu thủ Argentina trẻ nhất tham dự World Cup năm 2006 và về nhì tại Copa America 2007.
Messi giành chức vô địch quốc tế đầu tiên vào năm 2008, khi là thành viên của đội tuyển Olympic Argentina giành huy chương vàng Olympic tại Bắc Kinh. Đồng thời Messi cũng là người giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia Argentina.
Kể từ tháng 8 năm 2011, siêu sao người Argentina đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia đến trận chung kết của ba giải đấu lớn liên tiếp: World Cup 2014, giải đấu mà anh ấy đã giành được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất giải và hai lần về nhì tại Copa Châu Mỹ vào năm 2015 và 2016.
Vĩ đại ở cấp độ câu lạc bộ là vậy nhưng vẫn có gì đó khiến cho Lionel Messi không thể vĩ đại bằng Maradona. Đối với người dân xứ sở Tango, danh hiệu cùng ĐTQG mới là thước đo đánh giá sự thành công và cụ thể ở đây là chức vô địch World Cup. Nhưng thượng đế cũng đã mỉm cười với huyền thoại 35 tuổi vào mùa giải năm ngoái, Messi đã cùng với Albiceleste vô địch Copa America ngay trên sân của đại kình địch Brazil.
Tại kì World Cup 2022 diễn ra vào cuối năm nay trên đất Qatar, siêu sao người Argentina đã tuyên bố đây sẽ là kì World Cup cuối cùng của anh cùng đội tuyển quốc gia và tất cả những người hâm mộ của El Pulga đều đang mong chờ một cái kết thật đẹp và viên mãn cho hành trình cuối cùng trong sự nghiệp của cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại.
Eusebio sinh ngày 25 tháng 1 năm 1942 là huyền thoại bóng đá lừng danh trong lịch sử của nền bóng đá Bồ Đào Nha và thế giới. Báo đen đã dẫn dắt Bồ Đào Nha đến vị trí thứ ba tại World Cup 1966 và được vinh danh là vua phá lưới của giải đấu.
Eusebio đã giành được Quả bóng vàng vào năm 1965 và suốt sự nghiệp thi đấu đỉnh cao của mình, ông đã cống hiện cho câu lạc bộ quê nhà Benfica trong 15 năm và là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của câu lạc bộ.
Năm 1968, Eusebio trở thành cầu thủ đầu tiên giành được Chiếc giày vàng châu Âu, giải thưởng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất ở châu Âu trong một mùa giải. Ông đã lặp lại thành tích này vào 5 năm sau (1973). Từ năm 1964 đến năm 1973, ông là cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong Giải vô địch quốc gia Bồ Đào Nha với 7 lần giành danh hiệu vua phá lưới, qua đó giúp Benfica giành 11 chức vô địch quốc gia Portugal Liga và 5 Cúp quốc gia. Tính tổng cộng trong cả sự nghiệp của mình, “Viên ngọc đen” đã ghi được 727 bàn thắng sau 715 trận ra sân với Benfica, trong đó có 317 bàn sau 301 trận đấu tại giải VĐQG.
Eusebio nổi tiếng với tốc độ, sức mạnh và những cú sút chân phải cực uy lực, khiến ông có biệt danh "Black Panther" hay "Báo đen". Ông được coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại trong lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha, cũng như là tiền đạo người da màu đầu tiên ở đẳng cấp thế giới.
Trong cuộc bình chọn Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của IFFHS, Eusebio được xếp hạng ở vị trí thứ 9 trong danh sách những cá nhân vĩ đại nhất. Vào tháng 11 năm 2003, để kỷ niệm 50 năm thành lập UEFA, ông được Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất của Bồ Đào Nha trong 50 năm qua.
Trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình, ông đã ghi được tổng cộng 1137 bàn thắng và đã trở thành một trong ba cầu thủ đạt mốc 1.000 bàn thắng, cùng với Pele (1281 bàn) và Romario (1000 bàn).
George Best là thiên tài bóng đá người Bắc Ireland, người được nhớ đến nhiều nhất trong thời gian thi đấu cho nửa đỏ thành Manchester United. George Best là một cầu thủ chạy cánh có tốc độ, kỹ thuật, thăng bằng, khả năng tạo khoảng trống, sút xa hiệu quả bằng hai chân, ghi bàn và đánh lừa đối thủ một cách rất dễ dàng.
Ông đã giành chức vô địch C1 châu Âu với Manchester United vào năm 1968, cũng như Quả bóng vàng châu Âu vào năm đó. Dù chưa từng cùng với đội tuyển quốc gia Bắc Ireland tham dự một kỳ World Cup nào, Best vẫn luôn là cầu thủ có sự nghiệp vĩ đại nhất nhì làng túc cầu thế giới.
Năm 1999, George Best đứng ở vị trí thứ 11, sau Marco Van Basten của Hà Lan trong cuộc bình chọn của IFFHS về cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất thế kỷ. Best cũng đứng ở vị trí thứ 8 trong Top cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại của tạp chí bóng đá thế giới. Năm 2004, Pelé đã đưa Best vào TOP 125 huyền thoại bóng đá sống của thế kỷ 20.
Best là một trong những ngôi sao bóng đá xuất hiện sớm nhất, nhưng lối sống xa hoa, nghiện tửu sắc của ông đã khiến sự nghiệp thi đấu của ông bị hạn chế và cuối cùng dẫn đến bi kịch ở tuổi 59, Best qua đời do tổn thương thận, gan vì nghiện rượu và sốc thuốc.
Nhưng dù sao đi chăng nữa, những người yêu mến Quỷ đỏ thành Manchester sẽ luôn nhớ về ông là một trong những huyền thoại vĩ đại nhất, người đã làm nổi danh chiếc áo số 7 của đội bóng này.
Trên đây là danh sách 10 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại theo tạp chí nổi tiếng Four Four Two bình chọn. Việc chọn ra những cầu thủ xuất sắc nhất trong số hàng trăm danh thủ nổi tiếng trong suốt chiều dài lịch sử bóng đá là điều cực kì khó khăn. Sẽ luôn có sự tranh cãi về tính hợp lý trong những bảng danh xin tổng hợp thế này. Theo bạn, ai trong số các huyền thoại bóng đá xứng đáng có tên trong TOP 10 nhưng không được liệt kê ở đây, hãy để lại bình luận cho Bong Da INFO – kênh trực tiếp bóng đá cũng như cập nhật các bài viết soi kèo bóng đá uy tín hàng đầu hiện nay.
Bóng Đá INFO - Nguồn dữ liệu tỷ số trực tuyến BONGDASO nhanh và chính xác nhất, trang thông tin tổng hợp bongdalu Bongdainfox.tv cập nhật tin soi kèo
Thời gian hoạt động : 24h từ Thứ 2 - Chủ Nhật (Bao gồm cả ngày lễ)
Chịu trách nhiệm nội dung: Tống Nhật Vũ
Địa chỉ: 126 Lê Bình, Phường 4, Tân Bình, Hồ Chí Minh 700000.